Trong báo cáo Chỉ số Sáng tạo Toàn cầu 2020 (Global Innovation Index 2020 – GII) của 3 tổ chức nổi tiếng là Đại học Cornell, Trường Kinh doanh INSEAD và WIPO (Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế Giới), Việt Nam được xếp hạng chung ở vị trí 42/131, trong đó có nhiều tiêu chí khá ấn tượng. Nhưng thực tế kết nối giữa công nghệ và lao động trẻ ở Việt Nam còn quá nhiều điều khiến chúng ta phải lo lắng.
Chỉ số sáng tạo của Việt Nam 2020
Ở vị trí 41/131 nhưng Việt Nam xếp hàng đầu trong nhóm thu nhập trung bình thấp, trên cả Ukraina, Ấn Độ, và Philippines. Đây là năm thứ 2 liên tục Việt Nam ở vị trí này, một sự tiến bộ rất đáng khích lệ khi xếp hạng trung bình giai đoạn 2013-2015 là hạng 68. Báo cáo năm 2020 cũng liệt kê Việt Nam vào danh sách các nước điển hình có sự tiến bộ vượt bậc, cùng với Trung Quốc, Ấn Độ, và Philippines.
Trong các nhóm tiêu chí quan trọng, Việt Nam đạt kết quả xếp hạng khá tốt ở thị trường (34), môi trường kinh doanh (39), kết quả kiến thức và công nghệ (37), kết quả sáng tạo (38). Đáng chú ý ở một số chỉ số cụ thể, Việt Nam có thứ hạng rất cao. Chẳng hạn như tỷ lệ % xuất khẩu ròng hàng công nghệ cao trên tổng số giá trị trao đổi thương mại là ở vị trí số 2; tốc độ tăng GDP/lao động theo phương pháp ngang giá sức mua (PPP) là ở thứ hạng 4; tỷ lệ giá trị thị trường các ứng dụng di động/GDP (PPP) là ở vị trí số 10.
Sở dĩ Việt Nam có được thứ hạng cao ở những chỉ số này là vì nhiều nhà máy sản xuất thiết bị công nghệ, điện tử được đặt ở Việt Nam. Tuy nhiên phần lớn giá trị gia tăng vẫn thuộc về các doanh nghiệp FDI, hệ thống các ngành công nghiệp bổ trợ ở Việt Nam vẫn còn rất thiếu và yếu. Bài ca muôn thuở của các doanh nghiệp công nghệ là Việt Nam không cung cấp đủ lao động có trình độ, kỹ năng cần thiết.
Nhưng Việt Nam cũng có những nền tảng riêng của mình để cải thiện chỉ số sáng tạo, tạo ra những giá trị thực chất của riêng mình. Mặc dù còn bị chỉ trích nhiều nhưng không thể phủ nhận một số kết quả đào tạo ở bậc phổ thông của Việt Nam. Những kiến thức của các môn khoa học cơ bản như Toán, Lý được phổ cập đều và nếu không nói là hơi nặng cho học sinh Việt Nam. Rất nhiều học sinh Việt Nam khi du học, khá tự tin về kiến thức của 2 môn này so với bạn bè quốc tế. Xếp hạng PISA về khả năng đọc, toán, và khoa học của Việt Nam được xếp hạng 16 trong GII 2020.

Lao động trẻ chưa hòa vào dòng chảy công nghệ
Thông tin về một số bạn trẻ gần đây nộp thuế khủng khi phát triển các ứng dụng/trò chơi di động, hay trước đó nữa là hiện tượng Flappy Bird khiến không ít người vui và tự hào. Nhưng đây chỉ là những điểm dị biệt (outlier) trong tổng thể lao động trẻ của Việt Nam.
Chỉ cần quan sát đội ngũ chạy xe ôm công nghệ, giao hàng vào giờ cao điểm ở 2 thành phố lớn là Hà nội và TP. Hồ Chí Minh thì chúng ta mới thấy xót xa cho lực lượng lao động trẻ, mà phần lớn trong đó là có trình độ cao đẳng hay đại học, dường nào.
Nếu xét theo tiêu chí thành công của sinh viên là có việc làm tương xứng khi ra trường, nghĩa là đúng chuyên môn, đúng thu nhập, thì đây là một thất bại không hề nhỏ của chính bản thân người sinh viên, của trường đại học, và của cả hệ thống. Dĩ nhiên có những trường hợp phần do lỗi phần lớn là ở sinh viên như không chủ động trong quá trình học, không biết phát triển những kỹ năng, mối quan hệ, tận dụng những lợi thế của trường v.v.. nhưng quan trọng hơn là ở việc xây dựng và thực thi chính sách.
Trước hết là việc đánh giá, dự báo nhu cầu lao động của thị trường để từ đó có chiến lược, kế hoạch đào tạo cung cấp nguồn nhân lực. Rất khó, nếu như nói là không thể, để phụ huynh và bản thân các em học sinh bắt đầu vào cấp III biết được ngành nào sẽ cần bao nhiêu lao động trong 5, 10 năm tới chứ đừng nói đến 20, 30 năm.
Việt Nam xem chuyển đổi số, kinh tế số là một chiến lược quan trọng của đất nước nhưng việc đào tạo trong lĩnh vực khoa học công nghệ, công nghệ thông tin vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Chúng ta có rất nhiều trường đại học, với 237 trường đại học thì tính ra mỗi tỉnh, thành có gần 4 trường đại học, còn nếu chia theo 8 vùng thì mỗi vùng có đến gần 30 trường. Nhưng phần lớn trong số này là đào tạo các ngành trong lĩnh vực khoa học xã hội.
Không những thế, việc đào tạo các ngành liên quan đến khoa học, ứng dụng thì sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp là rất mỏng manh. Ở nhiều nước, chương trình thực tập có trả lương là bắt buộc, và chính phủ có chính sách thuế để khuyến khích doanh nghiệp tuyển thực tập viên. Chẳng hạn được hỗ trợ các khoản bắt buộc về bảo hiểm xã hội hay thậm chí một phần tiền lương. Chính sách này mang lại lợi ích cho cả sinh viên, nhà trường, và doanh nghiệp. Sinh viên được tiếp cận với thực tế, doanh nghiệp có lao động với chi phí rẻ trong một thời gian ngắn, nhiều khả năng tuyển dụng được lao động có chất lượng sau này.
Chương trình đào tạo của nhiều trường cũng chậm thay đổi để theo kịp xu hướng của việc chuyển đổi dần sang nền kinh tế số. Các chương trình đào tạo kỹ sư có chất lượng có số lượng sinh viên rất ít so với tổng số sinh viên đăng kí của cả nước. Các ngành như công nghệ thông tin, cơ khí tự động hóa không đáp ứng đủ nhu cầu lao động có kiến thức và kỹ năng cho thị trường. Các ngành như quản trị kinh doanh, tài chính, marketing của nhiều trường vẫn chưa lồng ghép các ứng dụng của công nghệ vào chương trình học. Lấy ví dụ như ngành marketing hay tài chính hiện nay, sinh viên cũng cần có một lượng kiến thức nhất định về lập trình, để làm việc với dữ liệu lớn.
Ai sẽ làm gì ?
Dĩ nhiên, các bên liên quan thì ai cũng phải có một phần trách nhiệm của mình: từ sinh viên (bao gồm cả phụ huynh), nhà trường, và các cơ quan của chính phủ. Nhưng quan trọng nhất vẫn là ở các chính sách, vì chính phủ có các các công cụ cần thiết để thực hiện và điều chỉnh.
Đầu tiên phải đề cập đến là vai trò quan trọng của Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trách nhiệm của 2 Bộ này là dự báo nhu cầu lao động và đào tạo cung cấp nguồn lao động đáp ứng nhu cầu của thị trường. Thiếu các nghiên cứu, đánh giá bài bản khoa học thì không thể dự báo hay điều chỉnh cập nhật dự báo. Từ đó, bên đào tạo cũng sẽ không biết ưu tiên đào tạo các ngành nghề gì, số lượng bao nhiêu, trình độ thế nào. Lấy ví dụ như lĩnh vực tự động hóa, cần bao nhiêu lao động ở trình độ kỹ thuật viên, tức ở mức trung cấp/cao đẳng, bao nhiêu kỹ sư hay nhà nghiên cứu để làm nghiên cứu và phát triển (R&D). Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần đẩy mạnh xu hướng tự chủ cho các trường đại học, việc phân bổ ngân sách cần dựa trên các chỉ tiêu hiệu quả có đánh giá định kỳ, từ đó các trường sẽ tự biết điều chỉnh như thế nào cho phù hợp.
Tiếp đến là vai trò của Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc định hướng, phối hợp, hỗ trợ các chính sách trong thẩm quyền của mình. Chiến lược phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là do Bộ này chủ trì nhưng cần phải bám sát nhu cầu và khả năng của xã hội, của doanh nghiệp. Một rủi ro lớn là do công nghệ phát triển nhanh, nhiều khi vì nôn nóng theo xu hướng thế giới mà nhiều chính phủ quên đi xuất phát điểm của mình, chạy theo hình thức và phong trào mà không để ý rằng công nghệ đó có khả năng áp dụng rất hạn chế với điều kiện hiện có.
Bộ Tài chính cũng sẽ có nhiều vai trò trong việc thúc đẩy sự kết nối giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp thông qua các chính sách khuyến khích về thuế. Hỗ trợ chi phí thực tập của sinh viên, hoàn thuế (tax credit) đối với các hoạt động R&D được công nhận, ưu đãi thuế trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân đối với chuyên gia cấp cao v.v.. sẽ là những xúc tác quan trọng để kết nối nhiều hơn lao động trẻ với công nghệ.
Cuối cùng, bản thân người học cũng cần có sự chuẩn bị của riêng mình. Ngay cả khi nhu cầu thị trường đã có, chương trình đào tạo đã sẵn sàng, mà bản thân không nỗ lực, không thích ứng thì cũng không thể trách vì sao mình bị nằm ngoài dòng chảy, nếu có trách thì hãy “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.
Tham khảo bài viết tại đây: https://saigondautu.com.vn/doanh-nghiep-doanh-nhan/day-dut-lao-dong-tre-thoi-cong-nghe-89402.html